Thứ Năm, 28 tháng 1, 2010
XÃ AN PHÚ TÂY
XÃ QUI ĐỨC
XÃ BÌNH CHÁNH
XÃ BÌNH HƯNG
XÃ BÌNH LỢI
XÃ ĐA PHƯỚC
XÃ HƯNG LONG
XÃ LÊ MINH XUÂN
XÃ PHẠM VĂN HAI
XÃ PHONG PHÚ
XÃ TÂN NHỰT
XÃ TÂN QUÝ TÂY
THỊ TRẤN TÂN TÚC
XÃ VĨNH LỘC A
Điện thoại: 7650520 – 7650701 – 7650702
Diện tích 19,78 km2 , dân số 23.706 người trong đó nữ 12.934 người. Mật độ: 1.201,8 người/km2.
Phía Đông giáp Bình Hưng Hòa B, Quận Bình Tân ranh phân biệt là đường Vinh Lộc
Phía Tây giáp xã Phạm Văn Hai ranh phân biệt là kinh liên vùng
Phía Nam giáp xã Vinh Lộc B ranh phân biệt là đường Vinh Lộc
Phía Bắc giáp với Huyện Hốc Môn ranh phân biệt là Rạch Cầu Sa
Trên địa bàn xã có 284 cơ sở kinh doanh sản xuất. Trong đó có 89 cơ sở kinh doanh thương nghiệp, 53 doanh nghiệp tư nhân, 142 cơ sở ăn uống, dịch vụ nhà cho thuê.
Ngoài ra có 02 trường cấp II; 03 trường cấp I; 02 trường trường mẫu giáo (01 trường dân lập); 01 trạm y tế.
Tại xã có 07 họ Tộc; 01 đình: Đình Xuân Hòa.
Vài nét về quá trình hình thành và phát triển xã:
Năm 1986 Xã Vĩnh Lộc A được chia tách từ xã Vĩnh Lộc, nằm ở phía Bắc của huyện Bình Chánh, cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh 18 km về phía Tây Nam với tổng diện tích đất tự nhiên là 1.978ha, dân số là 12.908 người. Đời sống chủ yếu của người dân nơi đây là trồng lúa nước, rau màu các loại và chăn nuôi. Trước năm 1954 xã Vĩnh lộc A thuộc quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định. Vùng đất này được hình thành cách đây gần 3 thế kỷ, do lưu dân các nơi về đây khai hoang lập nghiệp. Trải qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân xã Vĩnh Lộc A phải chịu nhiều đau thương mất mát, đấu tranh anh dũng góp phần làm nên đại thắng lịch sử năm 1975 giải phóng hoàn toàn Miền Nam thống nhất đất nước. Được nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng LLVT nhân dân vào ngày 06/11/1978.
Trong những ngày đầu giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta bắt tay khắc phục hậu quả chiến tranh. Sau năm 1976, Đảng bộ – Chính quyền – các đoàn thể xã củng cố lại hệ thống chính trị, sát cánh cùng nhân dân địa phương lao động tăng gia sản xuất phát triển kinh tế, VH – XH, ổn định chính trị, trật tự xã hội và bảo vệ thành quả cách mạng.
Sau 30 năm xây dựng và phát triển theo con đường CNXH, Đảng bộ – chính quyền – các đoàn thể xã không ngừng phát huy những điều kiện thuận lợi và khắc phục vượt qua những khó khăn, thử thách quyết tâm lãnh đạo nhân dân từng bước xây dựng quê hương đất nước đến nay đã đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực: Chính trị – Kinh tế – VH – XH – ANQP, góp phần đem lại cho nhân dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên CNXH trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước.
Trong công cuộc đổi mới, địa phương không ngừng thực hiện công tác đền ơn đáp nghĩa với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” trong việc chăm lo các gia đình chính sách thương binh liệt sĩ, người có công; chăm sóc nuôi dưỡng các mẹ VNAH ( có 32 mẹ VNAH, trong đó có 06 mẹ còn sống), các đồng chí lão thành cách mạng; xây dựng nhà tình nghĩa nhà tình thương; xây dựng và trùng tu các bia tưởng niệm những anh hùng liệt sĩ; thực hiện công trình điện khí hóa nông thôn cho 100% hộ dân có điện sinh hoạt và sản xuất; xây dựng nhiều công trình CSHT như: Đường giao thông nông thôn; trường học, trạm y tế chuẩn quốc gia; thực hiện tốt công tác khám chữa bệnh cho dân; công tác xóa mù chữ, phổ cập giáo dục; xóa đói giảm nghèo; trợ vốn cho nhân dân phát triển kinh tế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi v.v.
Song song với công tác chăm lo gia đình chính sách, trong gần 30 năm qua việc tri ân đối với những chiến sĩ đồng bào anh dũng hy sinh trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ cũng được địa phương quan tâm với những hành động thiết thực. Vào năm 1996, trùng tu và khánh thành bia 32 Nữ Dân Công Hỏa Tuyến hy sinh trong đợt 2 xuân Mậu thân 1968; Đến năm 1997 xây dựng bia liệt sĩ xã Vĩnh lộc ghi tên 1.027 liệt sĩ làm nơi họp mặt và giáo dục truyền thống hằng năm. Đến năm 2002, xây dựng bia bộ đội An Điền tưởng niệm 43 chiến sĩ đã anh dũng hy sinh trong thời kỳ chống Pháp. Công tác xây dựng nhà tình nghĩa – nhà tình thương cũng được Đảng bộ – chính quyền – Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đặc biệt quan tâm. Trong gần 30 năm qua, xã Vĩnh lộc A đã tổ chức và vận động xây dựng trên 97 căn nhà tình nghĩa cho các đối tượng chính sách, 217 căn nhà tình thương cho dân nghèo với tổng kinh phí trên 2.140.500.000đ.
Được sự quan tâm của lãnh đạo huyện và Thành phố, vào ngày 30/04/1997 khu công nghiệp Vĩnh lộc chính thức khởi công xây dựng trên phần đất nông nghiệp với diện tích 84ha, đến nay khu công nghiệp hoạt động mang lại nhiều hiệu quả thiết thực, góp phần đáng kể trong việc giải quyết việc làm cho người lao động. Thời gian gần đây vào ngày 21/01/2005 công trình khu dân cư Vĩnh lộc A chính thức khởi công xây dựng trên địa bàn xã với diện tích 30ha, góp phần xây dựng cuộc sống mới và giải quyết vấn đề nhà ở cho dân tái định cư. Bên cạnh đó, hiện nay trên địa bàn xã có khoảng 284 doanh nghiệp, công ty TNHH sản xuất, cơ sở kinh doanh dịch vụ, thương mại đã và đang hoạt động thực hiện tốt nghĩa vụ thuế nhà nước. Tất cả góp phần phát triển nền kinh tế địa phương theo hướng CNH – HĐH.
Trên lĩnh vực nông nghiệp: Với truyền thống của người dân địa phương là trồng lúa nước, rau màu các loại và chăn nuôi. Thực hiện chủ trương về chuyển đổi cơ cấu sản xuất cây trồng vật nuôi và từng bước hiện đại hóa trong phát triển nông nghiệp. Đến nay, trên 80% người dân cơ giới hóa trong việc trồng lúa và rau màu, nhiều giống cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao như cây bắp lai, cây bông cải. Bên cạnh đó, mô hình chăn nuôi bò sữa, bò lai sin, chăn nuôi heo hiện nay cũng là thế mạnh về kinh tế nông nghiệp của địa phương.
Trạm y tế xã được đầu tư nâng cấp xây dựng theo chuẩn quốc gia khang trang sạch đẹp, được trang bị nhiều máy móc, phương tiện khám chữa bệnh hiện đại nhằm mục đích làm tốt công tác khám chữa bệnh cho nhân dân.
Bên cạnh đó Giáo dục là quốc sách hàng đầu trong sự nghiệp phát triển KT – XH, trong những năm qua xã Vĩnh lộc A đã đầu tư xây dựng mới 02 trường cấp I, 02 trường cấp 2 trên tổng số 6 trường trên địa bàn xã khang trang sạch đẹp đáp ứng nhu cầu trường lớp, cơ sở vật chất giảng dạy nâng cao mặt bằng dân trí cho con em địa phương. Đối với công tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ, xã Vĩnh lộc A được thành phố công nhận hoàn thành phổ cập bậc tiểu học, phấn đấu đến năm 2007 tiếp tục hoàn thành phổ cập giáo dục bậc trung học.
Thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo do thành phố phát động vào năm 1992 đến nay, xã Vĩnh lộc A luôn hoàn thành tốt công tác theo chỉ đạo của huyện và thành phố. Vào tháng 11/2003 xã Vĩnh Lộc A được thành phố công nhận là xã không còn hộ nghèo theo tiêu chí của Thành phố.
Tình hình ANCT – TTATXH trong 30 năm qua được giữ vững, hiện nay trên địa bàn xã không còn đối tượng tàng trữ, mua bán và sử dụng các chất ma túy.
Về công tác quốc phòng, địa phương luôn thực hiện tốt công tác sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện tham gia hội thao quốc phòng luôn đạt những thứ hạng cao, công tác giao quân luôn hoàn thành và vượt chỉ tiêu hàng năm
Trên đây là đôi nét về tình hình KT – XH – Quốc phòng an ninh trong 30 năm xây dựng và phát triển xã của Vĩnh lộc A
XÃ VĨNH LỘC B
Điện thoại : 08.7650316
Diện tích 17,4 km2, dân số 25.313 người, trong đó nữ 14.291 người. Mật độ dân số 1.455 người/km2.
Phía Đông giáp phường Bình Hưng Hòa B, Bình Trị Đông, ranh phân biệt Rạch Nước Lên.
Phía Tây giáp xã Phạm Văn Hai, ranh phân biệt là Kinh liên vùng, Kinh T15A,B.
Phía Nam giáp xã Phạm Văn Hai, ranh phân biệt là cột mốc.
Phía Bắc giáp xã Vĩnh Lộc A, phường Bình Hưng Hòa B, ranh phân biệt là đường Vĩnh Lộc (HL80 củ).
Trên địa bàn xã có 180 cơ sở sản xuất nhỏ, 321 cơ sở kinh doanh thương nghiệp, 102 cơ sở kinh doanh ăn uống, 72 cơ sở dịch vụ. Ngoài ra còn có 1 Trạm y tế, 1 Trường Trung học cơ sở, 1 Trường Tiểu học, 1 Trường Mầm Non.
Tại xã tọa lạc 02 ngôi chùa : Chùa Giác Thạnh, Thánh Thất Cao Đài Vĩnh Lộc, 01 Đình Thần : Đình Thần Vĩnh Lộc.
Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của xã
Xã Vĩnh Lộc B huyện Bình Chánh nằm về phía Tây Nam Thành phố Hồ Chí Minh, được tách ra từ xã Vĩnh Lộc vào năm 1986, cách Trung tâm Thành phố 18km và cách huyện lỵ Bình Chánh 17km là một xã vùng ven của Sài Gòn cũ, đã có quá trình chống Pháp và Mỹ, đã được Quốc Hội tuyên dương là đơn vị Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân Việt Nam vào ngày 06/11/1978.
Vĩnh Lộc B được bao bọc bởi 3 con đường chính : phía Tây Đông là Quốc lộ 1A, phía Tây Nam là Tỉnh lộ 10, phía Bắc là đường Vĩnh Lộc (Hương lộ 80 cũ). Địa bàn xã được chia thành 06 ấp, 153 Tổ nhân dân ấp. Cư dân xã Vĩnh Lộc B sống bằng nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. Đất đai phần lớn là đất cát pha, cấy lúa 1 vụ, năng suất thấp. Do đó thời gian gần đây có nhiều hộ chuyển sang lập vườn chăn nuôi, chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Đời sống người dân còn nhiều khó khăn nhưng với truyền thống trải qua bao cuộc chiến tranh, vừa chống chọi với thiên nhiên để khai thác vùng đất hoang hóa, nhân dân xã Vĩnh Lộc B đã góp phần công sức của mình vào công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng quê hương ngày càng phát triển và hoàn thiện để xứng đáng là đơn vị Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân
XÃ TÂN KIÊN
Điện thoại: 08.7560755
Diện tích : 11,46 km2, Dân số : 32.457 người, trong đó nữ 21.940 người. Mật độ dân số 2.832,2 người/km2.
Phía Đông của xã giáp phường An Lạc, quận Bình Tân
Tây giáp xã Tân Nhựt
Nam giáp Thị trấn Tân Túc
Bắc giáp phường Tân Tạo, quận Bình Tân.
Toàn xã có 58 doanh nghiệp, 185 cơ sở thuộc ngành công nghiệp và 50 doanh nghiệp, 842 cơ sở thuộc ngành thương nghiệp.
Ngoài ra còn có 01 trạm y tế và 01 trường cấp II Tân Kiên, 02 trường cấp I Tân Kiên; 04 Trường Mầm non (Trường mầm non Baby ấp 2; Nai Ngọc; Tuổi Ngọc; Hoa Hướng Dương ấp 3).
Xã có 04 ngôi chùa gồm : chùa Từ Quang, chùa Quang Minh ấp 2, chùa Pháp Nguyên ấp 3; chùa Pháp Tịnh ấp 4.
Có 05 đình : Đình Hưng Thái, Mỹ Phú ấp 1; Đình Hòa Thới, Hưng Nhơn ấp 2; Đình Tri Hòa, Đình Tri Hòa, Đình Tân Kiên ấp 3. Ngoài ra còn có 01 Thánh Thất cao đài ở ấp 4.
Sự hình thành và phát triển xã
Ngày 30/4/1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng thống nhất đất nước, xã Tân Kiên được quân giải phóng tiếp quản và thành lập UBND cách mạng lâm thời xã Tân Kiên, lấy trụ sở hành chính của chế độ cũ làm trụ sở làm việc của UBND Cách Mạng lâm thời xã Tân Kiên cơ cấu đ/c bí thư chi bộ chủ tịch UBND cách mạng lâm thời xã.
Về địa giới hành chính xã Tân Kiên khi mới giải phóng có 5 ấp với tổng diện tích 1.146 ha, năm 1987 xã được phân chia lại thành 04 ấp cho đến nay.
Xã Tân Kiên có vị trí địa lý giáp cận nội thành có Quốc lộ 1A đi qua nên tốc độ phát triển rất nhanh. Những năm đầu giải phóng nền kinh tế hoàn toàn dựa vào nông nghiệp là chính, hệ thống cơ sở hạ tầng chưa có, mật độ dân cư sống thưa thớt, trình độ dân trí còn thấp, do đó đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Sau 30 năm giải phóng, cùng với sự phát triển chung của khu vực, Tân Kiên đã và đang trong quá trình phát triển đô thị hóa nhanh. Nhiều công ty, xí nghiệp kinh doanh trên địa bàn đã tạo việc làm cho lao động xã từng buớc thêm thu nhập, ổn định cuộc sống.
Năm 2004, trụ sở UBND xã đã được dời về địa chỉ C9/9D cách trụ sở cũ 300m về hướng Nam và được xây dựng mới, khang trang hơn, với tổng kinh phí : 2.887.000.000 đ. Trụ sở được xây dựng 01 lầu và 01 trệt, với tổng diện tích xây dựng 4.000m2, trang thiết bị trong các phòng làm việc được bố trí đầy đủ, phục vụ cho cán bộ công nhân viên hoàn thành công tác.
Đội ngũ cán bộ công nhân viên từng bước được trẻ hóa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ được nâng lên, đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
GIẶC PHÁP THẢM SÁT CẦU RẠCH GIÀ XÃ HƯNG LONG NĂM 1948
Hưng Long là xã cánh Nam Bình Chánh, địa bàn rộng với (1297 ha), nằm dọc theo con sông Cần Giuộc từ Đông sang Tây. Trong kháng chiến chống Pháp có vị trí quan trọng của khu vực Tây nam Thành Phố; là " Căn cứ lõm" của vùng đất liên xã Hưng Long, An Phú Tây, Tân Quý và Qui Đức. Toàn xã lúc bấy giờ có hơn 200 ha địa hình cây dừa nước, bần, bình bát với nhiều ô rô, cỏ dại khác; nhất là khu vực sông Quán Cơm, Rạch Già giáp xã An Phú Tây và Tân Quý. Những năm 1946, 1948 Hưng Long còn thuộc huyện Cần Giuộc (Tỉnh Chợ Lớn); là một địa bàn thuận lợi cho lực lượng cách mạng quân khu, liên xã đứng chân. Đó là cán bộ dân quân, chính Đảng của Tỉnh, Huyện (bị lộ) về đây tạm ở, chờ dự hội nghị hoặc họp hội...Có thể nói Hưng Long vào những năm đầu kháng chiến, là cơ sở tiền tiêu đứng chân cho việc tập kết cán bộ Việt Minh đi về căn cứ "Rừng Sác", "Vườn Thơm" và ngược lại mà vào giữa năm 1946, bộ đội Quản Cân đã đánh xóa đồn giặc Pháp tại ấp 1, giải phóng cho xã, tạo tiền đề cho các lực lượng cách mạng ta (yên tâm), về đây đứng chân với "căn cứ lòng dân Hưng Long" vững chắc, luôn cưu mang hết lòng vì cách mạng.
II/ Diễn tiền trận càn của giặc Pháp:
Chủ trương của giặc lúc bấy giờ là "Đánh nhanh thắng nhanh" bị thất bại vì Việt Minh ngày càng lớn mạnh; giặc Pháp quay sang bình định lấn chiến đồng bằng Bắc Bộ, ở Nam bộ chúng tập trung đánh mạnh vào các vùng (độc lập) trọng điểm của ta. Tại Tỉnh Chợ Lớn ngày 15/4/1948, giặc Pháp mở cuộc tấn công qui mô cấp trung đoàn vào "Căn cứ Vườn Thơm" nhưng vẫn bị thua đau. Tình hình xã Hưng Long sau khi bị ta đánh xóa đồn "Cây Dương" ấp 1, năm 1946; giặc cay cú thừa biết Hưng Long là nơi tập trung nhiều đơn vị cán bộ Việt Minh; chúng quyết tâm càn quét tiêu diệt lực lượng cách mạng để đóng đồn ở đây, khống chế mọi hoạt động của ta. Do đó sáng ngày 4/5/1948, giặc Pháp điều động 2 tiểu đoàn bộ binh (thuộc lính Âu Phi), cùng với các trung đội lính Bảo an thuộc bót Cần Giuộc, Long Thượng, Qui Đức, Tân Quý và Bình Điền; trên sông Cần Giuộc (khu vực Quán Cơm) giặc cho tàu, canô tới lui án ngữ.
Rạng 7 giờ sáng ngày 4/5, giặc đổ bộ bằng 3 mũi: Cánh thứ nhất từ xã Phong Phú, tỉnh lộ 50 (nay là Quốc lộ) đi qua; Cánh thứ hai từ ấp 2 và 3 Hưng Long, Hương lộ 11 đổ vào. Hai mũi này giặc hành quân chậm, vừa nổ súng vừa xét hỏi bắt dân và tạo thành vòng vây tiến lần đến Rạch Già (ấp 6). Mũi thứ ba từ Bình Điền vào đến xã An Phú Tây (gần mục tiêu), nằm yên phục kích. Bên ta gồm: Dân quân Hộ 17, Quận 8, quân nhu Quân khu 7, Ban công tác Thành, Đoàn thể Mặt trận Huyện Cần Giuộc và cùng phần lớn nhân dân chạy giặc Tây... vì quá ít vũ khí ta không thể chủ động đối phó, tưởng giặc đi bố bình thường, ta lần lượt rút về ấp 6 Rạch Già tránh giặc.
Đến 11 giờ trưa, 3 cánh quân của giặc vừa bắn phá vừa khép lại đội hình chữ "O", nổ súng quyết liệt áp đảo ta. Sau đó, chúng cho nhiều đại đội địch áp sát hai bên bờ sông Rạch Già; đồng thời cho một đơn vị lính ác ôn dùng lựu đạn và súng tiểu liên lục soát dưới lòng rạch, nước ròng đang cạn sát. Hai bọn lính, cả dưới sông lẫn trên bờ vào nhà dân thi nhau lùng sục...chẳng những chúng ném lựu đạn, nổ súng giết người dưới rạch; mà ngay ở nhà dân ai bị quần áo ướt hoặc dính bùn cũng bắn tại chỗ. Tại cầu Rạch Già giặc bắt trói khoảng 40 đồng bào ta rồi xả súng giết! Trên khu vực Rạch già (ấp 6 Hưng Long), giặc Pháp đã thảm sát khoảng 200 người thuộc quân dân, chính, Đảng của ta nói trên; sau đó 14 giờ chiều giặc còn bắt đi 100 người (tuổi từ thanh đến trung niên) để làm sâu (lao công) xây dựng bót "Quán cơm".
Qua trận càn Huyện ủy Cần Giuộc có gởi thư đến chia buồn xã Hưng Long và chính quyền Mặt trận xã tổ chức Lễ truy điệu chung cho các đồng chí, đồng bào đã hy sinh tại Rạch Già ngày 5/4/1948. Từ đây ngày 26/3 Âm lịch là ngày giỗ hội của nhiều gia đình, đồng bào ở vùng đất liên xã này.
III/ Tên đơn vị có người hy sinh (Có danh sách kèm theo)
1. Ban Quân nhu Quân khu 7
2. Ban công tác Thành
3. Quận 8 (tức Hộ 17)
4. Ban Chấp hành Thanh niên Huyện Cần Giuộc
5. Xã Hưng Long
6. Xã An Phú Tây
7. Xã Tân Quý Tây
8. Xã Đa Phước
9. Xã Phong Phú
10. Xã Long Thượng (Cần Giuộc)
IV/ Nhân chứng có liên quan hoặc có hiểu biết cuộc càn:
1/ Đồng chí Nguyễn Văn Chính (9 Cần) nguyên Ủy viên Trung Ương Đảng, Chủ Tịch Hội Nông dân Việt Nam đã về hưu hiện ở 290 Điện Biên Phủ Quận 3
2/ Đồng chí Nguyễn Văn Chí (6 Chí) nguyên Ủy viên Trung Ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã về hưu, hiện ở 24B Trần Quốc Thảo, Quận 3.
3/ Đồng chí Lưu Sĩ Biểu (Quốc Bửu) nguyên Huyện ủy viên, Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh Huyện Cần Giuộc (1948), bệnh mất 1996, ở ấp 5 xã Hưng Long, đã ký xác nhận bản gốc nội dung văn bản Rạch Cầu Già.
4/ Đồng chí Lưu Quang Tuyến, nguyên Ủy viên Thường vụ Tỉnh Ủy Long An, Trưởng ban Khoa giáo Tỉnh về hưu ở Thị xã Tân An.
5/ Đồng chí Hai Cọp (Hai Thắng) nguyên Giám đốc Công ty Du Lịch Long An , hiện ở số 5 đường Ngô Quyền, Thị xã Tân An.
Nội dung sự kiện này dựa trên cơ sở nội dung gốc, "Rạch Cầu Già xã Hưng Long" của "Thư viện Tư liệu Phòng Bảo tồn Bảo tàng", số 132/TL Sở Văn hóa Thông tin Thành Phố và có sưu tầm xác minh bổ sung thêm.
CHIẾN CÔNG LÁNG LE
Láng Le - Bàu Cò thuộc Huyện Trung Huyện, Tỉnh Chợ Lớn nay thuộc huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh cách Sài Gòn 7km đường chim bay, là đồng bưng rộng lớn trải dài trên các xã Tân Tạo, Tân Nhựt và Lê Minh Xuân thuộc Bình Chánh. Đông sang Tây dài độ 10km, Bắc xuống Nam rộng khoảng 5 đến 6 km. Đặc điểm địa hình, địa vật: Mùa nắng sình lầy nước động, mùa mưa nước láng mênh mông. Đồng bưng trống trãi, nhìn thông thống mọi hướng nhưng cỏ lát lùm bụi dày đặc. Vị trí chiến lược: Nằm trong căn cứ địa của Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn được tổ chức thành thế liên hoàn gắn liền với khu kháng chiến Vườn Thơm - Bà Vụ, nối liền với Lương Hòa - Tân Bửu và Đồng Tháp Mười. Bàu Cò - Láng Le là địa đầu, là căn cứ du kích tiền tiêu của Vườn Thơm - Bà Vụ - của Trung Huyện ngay sát Thành Phố. Là cửa ngõ chiến khu, tiếp đón, trung chuyển vào Sài Gòn.
II. Các trận đánh lịch sử
1/ Chống thành công trận càn của Pháp (15/4/1948):
Mục đích của giặc Pháp muốn bóp chết khu căn cứ Cách mạng của ta vì là gai nhọn đối với giặc Pháp chỉ cách Thành Phố 7 km. Là nơi xuất phát chủ trương vận động quần chúng nhân nhân đánh giặc. Chỗ dựa để phát triển lực lượng Cách mạng của một vùng rộng lớn. Là hậu cần, là bàn đạp của lực lượng vũ trang giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Là gia đình của Tiểu đoàn 6 - An ninh T4 của đơn vị biệt động thành. Sau khi chiếm lại Sài Gòn - Gia Định, các tỉnh lỵ, Huyện lỵ ở Nam bộ, Pháp đã thiết lập bộ máy ngụy quyền từ Trung ương đến địa phương, ra sức tăng cường nhanh chóng sức mạnh quân sự, xây dựng hệ thống đồn bót, mở rộng phạm vị chiến đấu và sử dụng lực lượng tập trung cơ động, thọc sâu và đánh vào các căn cứ kháng chiến của ta thực hiện ý đồ chiến lược " Tốc chiến tốc thắng" nay quay sang bình định lấn chiếm địa bàn căn cứ kháng chiến của ta. Do sự chênh lệch về tương quan lực lượng ở thời kỳ đầu, trước sức mạnh quân sự tạm thời của địch, đại bộ phận lực lượng của ta từ cơ quan đầu não đến lực lượng vũ trang, các tổ chức ban ngành đều rút ra khỏi nội thành, chiếm giữ lấy địa bàn trọng yếu ở ngoại vi, xây dựng thành căn cứ địa đảm bảo cho sự chỉ đạo về mọi mặt được thông suốt và xây dựng phát triển lực lượng toàn diện để thực hiện "Trường kỳ kháng chiến".Là trận tấn công có qui mô lớn nhất sau ngày 23/9/1945 đến tháng 4/1948 ở Miền Đông Nam bộ.
Qui mô của giặc: Cuộc hành quân cấp trung đoàn tăng cường bao gồm : Bộ binh, không quân, xe lội nước, tàu thủy và pháo binh. Tính chất: ác liệt, đốt phá, bắn giết dã man, khói lửa ngút trời với tiếng gầm rú của xe tăng, tàu bay và tiếng nổ xé không gian của đại bác. Thời gian: Từ sáng sớm đến chiều tối
Sự chống trả của ta: Đơn vị chủ lực: Trung đoàn Phạm Hồng Thái và chi đội 15 (Trung đoàn 308) cùng với dân quân Trung Huyện. Mặc dù quân số và đạn dược thiếu thốn, chiến sĩ chưa được huấn luyện đầy đủ nhưng tất cả chiến đấu bằng lòng căm thù sôi sục đối với quân xâm lược và tinh thần xả thân hy sinh vì nền độc lập của Tổ Quốc. Cuối cùng ta đã bẻ gãy trận càn lớn của địch, phá tan âm mưu bao vây tiêu diệt lực lượng của ta, khủng bố tinh thần cán bộ và nhân dân ta muốn đẩy lùi căn cứ kháng chiến và lực lượng Cách mạng ra xa sào huyệt đầu não của chúng.
Ý nghĩa của chiến thắng: Đây là một thắng lợi quân sự vang dội khắp các chiến trường vào thời điểm bấy giờ, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần kháng chiến của bộ đội và nhân dân ta. Dù lực lượng võ trang non trẻ, thiếu thốn mọi mặt nhưng vẫn tổ chức kháng cự có hiệu quả và cuối cùng đánh bại một trận càn quét lớn của địch. Là một bài học quí giá về xây dựng và tác chiến của lực lượng Cách mạng. Một ý nghĩa có tính chiến lược là chiến thắng Láng Le bước đầu đã làm thất bại ý đồ " Tốc chiến, tốc thắng" của địch, muốn diệt cơ quan đầu não và lực lượng chủ lực của kháng chiến đã thất bại hoàn toàn.
2/ Chiến thắng trong trận "Tìm diệt" của Mỹ ngụy (14/10/1966):
Cũng trên địa phận Láng Le - Bào Cò của xã Tân Nhựt anh hùng, ngày 14/10/1966 một Tiểu đoàn Biệt động quân của ngụy quyền Sài Gòn bị bộ đội Tiểu đoàn 6 Bình Tân và dân quân du kích tiêu diệt. Là một trận tiêu diệt địch cấp tiểu đoàn - một trong những chiến thắng quan trọng của thời kỳ tập trung đánh mạnh, nhằm tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch; diệt ác phá kiềm; củng cố và giữ vững vùng giải phóng. Nơi đây đã trở thành bàn đạp tiến công của lực lượng cách mạng phía tây nam thành phố, giành thắng lợi trong cuộc tiến công Xuân Mậu thân và chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
III. Khu di tích Láng Le:
Để tưởng nhớ đồng bào và chiến sĩ cách mạng đã hy sinh trên vùng đất này, từ năm 1988, Huyện ủy Bình Chánh đã quyết định xây dựng công trình lịch sử trên vùng đất Láng Le thuộc ấp 1 xã Tân Nhựt, Huyện Bình Chánh với tổng diện tích là 10.000m2. Cuối năm 1988 hai dãy mộ và bia tập thể để tưởng niệm các chiến sĩ và dân quân đã hy sinh trong các trận đánh thời chống Pháp và chống Mỹ đã được xây dựng. Sau đó các hạng mục khác cũng dần dần được hình thành và đến năm 1993 thì hoàn chỉnh công trình như ngày nay.
KHU DI TÍCH LÁNG LE BÀU CÒ
Từ xã Lê Minh Xuân (huyện Bình Chánh), con đường Láng Le - Bàu Cò được tráng nhựa xuyên thẳng qua xã Tân Nhựt với điểm đến là khu di tích lịch sử Láng Le - Bàu Cò.
Láng Le - Bàu Cò là nơi diễn ra trận chống càn bảo vệ căn cứ kháng chiến và lực lượng võ trang Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. (Trên dãy đất rộng phía Tây Nam Sài Gòn - Chợ Lớn, cùng với xóm làng bên cạnh những dòng sông và kênh rạch chằng chịt, tự nhiên và con người đã tạo ra những “cái láng”, “cái bàu” nước có rất nhiều tôm cá. Đất lành chim đậu, nhiều loài chim như cò, le le, vịt nước, diệc…tìm đến cư trú kiếm ăn. Từ đó, mọi người đặt cho vùng đất này cái tên mộc mạc, gần gũi “Láng Le - Bàu Cò”).
Địa danh Láng Le - Bàu Cò đã đi vào lịch sử oai hùng chống xâm lược của quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, bằng thắng lợi của cuộc chống càn anh dũng, mưu trí diệt địch, bảo vệ dân, bảo vệ căn cứ Tỉnh ủy Chợ Lớn (tại Đình Tân Túc – Thị Trấn Tân Túc) và Ủy ban kháng chiến hành chánh thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định.
Khoảng 3 giờ sáng ngày 15/4/1948, thực dân Pháp với 3.000 quân, chủ yếu là lực lượng ứng chiến Âu Phi với 24 xe lội nước loại nhẹ, 04 tàu đổ bộ đầu bằng, được máy bay và pháo binh yểm trợ đã đồng loạt từ nhiều hướng với nhiều mũi tấn công, bao vây vùng Láng Le - Bàu cò.
Lực lượng ta gồm bốn đại đội của Trung đoàn 308; hai tiểu đoàn của Trung đoàn Phạm Hồng Thái; một bộ phận của Trung đoàn 312 cùng các bộ phận vũ trang của Vệ quốc đội; Công an Sài Gòn - Chợ Lớn; dân quân, du kích tập trung của Trung huyện (huyện Bình Chánh).
Sau hơn nửa ngày chiến đấu với giặc để bảo toàn lực lượng và bảo vệ nhân dân vùng Tam Tân tản cư, ta quyết định tấn công về hướng rạch Lươn Sâu (cách khu di tích 100m) của kênh Xáng và gò chợ Trịnh Khánh An. Tại đây, các lực lượng ta tập trung mọi hoả lực khai hoả và đồng loạt xung phong dũng mãnh, đánh giáp lá cà với địch, máu loan đỏ cả rạch Lươn Sâu. Ta đã tiêu diệt gọn đại đội Miên, mở được đường tiến, đưa 3.000 dân Tam Tân cùng toàn bộ lực lượng võ trang, dân quân du kích vượt Kênh Xáng sang đất Tân Bửu (nay là xã Tân Bửu - huyện Bến Lức, Tỉnh Long An) vào rừng tràm Bà Vụ an toàn.
Trong trận Láng Le - Bàu Cò, ta đã tiêu diệt gần 300 tên địch, bắt sống 30 lính đánh thuê, phá huỷ 05 xe nhà binh, thu 01 máy thông tin liên lạc cùng 85 khẩu súng các loại.
Trong trận chiến đấu ác liệt không cân sức này, 32 cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh, 40 đồng chí khác bị thương, 17 đồng chí mất tích. Trong đó có nhiều đồng chí hy sinh khi tuổi còn rất trẻ như liệt sĩ Nguyễn Văn Hạo, Tiểu đoàn trưởng Chi đội 15; liệt sĩ Nguyễn Văn Keo, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn Ký Con thuộc Trung đoàn Phạm Hồng Thái…
Cùng với chiến công vang dội đã đi vào lịch sử bằng trận chống càn ngày 15/4/1948, Láng Le - Bàu Cò còn là nơi diễn ra nhiều sự kiện tô thắm thêm các trang sử vàng của thành phố qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Địa danh Láng Le - Bàu Cò ghi nhận ý chí quyết tâm đánh giặc của quân và dân Trung Huyện (huyện Bình Chánh) không ngại hy sinh, dám xả thân mình vì độc lập, tự do của dân tộc.
Để ghi nhớ công ơn của các lớp cha anh cùng đồng bào đã hy sinh anh dũng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, tại Láng Le - Bàu Cò, từ năm 1988, Huyện ủy Bình Chánh đã đề ra chương trình phục hồi di tích Láng Le - Bàu Cò với các công trình: rạch Lươn Sâu (làm tượng trưng), tượng đài, bia ghi công các liệt sĩ thời chống Pháp và Mỹ, nhà trưng bài truyền thống, công viên sinh hoạt văn hoá với diện tích trên 01ha.
KHU DI TÍCH DÂN CÔNG HỎA TUYẾN MẬU THÂN 1968
Khu di tích Dân công Hỏa tuyến Mậu Thân 1968 tọa lạc tại ấp 4 xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh; được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh công nhận là khu di tích lịch sử cấp Thành phố theo Quyết định số 119/2005/QĐ-UBND ngày 12/7/2005.
Để phục vụ tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta trong đợt I và II tại Sài Gòn năm Mậu Thân 1968, được sự chỉ đạo của phân khu II, cấp ủy xã Vĩnh Lộc, Chi bộ ấp Tân Hòa 1, Tân hòa 2, Thới Hòa cùng các cơ sở cách mạng nồng cốt đã vận động, tổ chức các đoàn dân công với hàng trăm nam nữ thanh niên tham gia đi phục vụ chiến đấu.
Tổ chức dân công hỏa tuyến không đòi hỏi kỷ luật chặt chẽ khắt khe như bộ đội địa phương hay quân đội chính qui. Dân công hỏa tuyến Vĩnh Lộc là những nam, nữ thanh niên tham gia dân công với đa phần là nữ ở lứa tuổi từ 16-20 tuổi. Đây là lứa tuổi hồn nhiên, yêu đời, khi được vận động đã sẵn sàng gánh vác những nhiệm vụ nặng nề không hề so đo, tính toán, không ngại gian khổ, hy sinh. Nhiệm vụ chủ yếu của dân công hỏa tuyến là phục vụ chiến đấu. Mỗi khi có trận đánh, các đoàn dân công luân phiên nhau phục vụ, mỗi đoàncó khoảng 50 - 60 người, có du kích dẫn đường. Đoàn dân công Vĩnh Lộc với nữ chiếm đa số, trang phục tự có của nữ dân công rất bình dị và gọn gàng, mỗi khi đi làm nhiệm vụ các chị thường mang khăn rằn, mặc áo bà ba màu đen hoặc màu xanh thẳm, quần săn quá gối, có mang theo võng để sử dụng khi nghỉ ngơi và khi cần thiết làm võng cáng thương binh.
Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 15 tháng 6 năm 1968 (nhằm ngày 20 tháng 5 năm 1968 âm lịch), cũng như mọi đêm, đêm ấy, đoàn dân công với gần 60 người được lệnh đưa thương binh vượt bưng Láng Sấu xuống Đức Hòa - Long An và tải đạn về Sài Gòn. Khi đoàn dân công qua khỏi “vùng trắng” tới đồng bưng thì bị máy bay địch thả pháo sáng và phát hiện ra đội hình, chúng đã xả đạn như vãi trấu vào đoàn dân công trên đồng bưng trống trải. Sau trận oanh kích của địch, 35 người trong đoàn hy sinh, trong đó có 32 dân công (25 nữ, 7 nam, có 05 người đã lập gia đình), 03 bộ đội chủ lực; 25 người sống sót, bị thương tật.
Ngay đêm đó, bất chấp hiểm nguy và sự khủng bố tinh thần của địch, bà con ấp Tân Hòa 1, Tân Hòa 2 đã tiến ra đồng bưng cứu chữa những người bị thương và đưa xác con em mình lên những chiếc xe bò về nhà chăm sóc và tổ chức lễ an táng cho những người con đã hy sinh. Đêm 15/6/1968 là đêm đau thương, đêm không thể nào quên trước sự hy sinh rất lớn của người dân Vĩnh Lộc.
Trong cuộc chiến không cân sức trước kẻ thù, bà con Vĩnh Lộc chứng kiến nhiều trận đấu kiên cường, anh dũng hy sinh của các chiến sĩ cách mạng. Những dân công hỏa tuyến là những người tay không, chân đất, giữa đồng bưng trống trải, không vũ khí, họ hy sinh trong tư thế ôm lấy nhau, truyền cho nhau sức mạnh, đất đồng bưng hiền hòa với những đìa nước, dứa dại, cỏ lau là nơi duy nhất nâng đỡ, che chở cho những con người quả cảm ấy.
Sự hy sinh của các chiến sĩ dân công Vĩnh Lộc là điểm son sáng ngời về tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam anh hùng. Khu di tích là bản hùng ca về hình ảnh các cô gái vùng ven Sài Gòn đi dân công phục vụ chiến trường; là nơi lưu giữ những tấm gương sáng ngời của thanh niên vùng ven Thành phố đã vượt gian khổ, sẳn sàng hy sinh, vững tin vào thắng lợi; là địa điểm văn hóa, nơi giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ.
VÀI NÉT VỀ HUYỆN BÌNH CHÁNH
Dân số: 330.605 người (Năm 2006)
Các xã, thị trấn: Thị trấn Tân Túc và 15 xã là: Vĩnh Lộc A, Vĩnh Lộc B, Phạm Văn Hai, Bình Lợi, Lê Minh Xuân, Tân Nhựt, Tân Kiên, Bình Chánh, An Phú Tây, Tân Quý Tây, Long Hưng, Quy Đức, Đa Phước, Phong Phú, Bình Hưng.
1. Tổng quan
Bình Chánh là một trong 5 huyện ngoại thành của thành phố Hồ Chí Minh, nằm phía Tây Nam thành phố. Phía Bắc giáp huyện Hóc Môn. Phía Nam giáp huyện Bến Lức và huyện Cần Giuộc của tỉnh Long An. Phía Tây giáp huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Phía Đông giáp quận Bình Tân, quận 7, quận 8 và huyện Nhà Bè.
Bình Chánh nằm ở cửa ngõ phía Tây của thành phố Hồ Chí Minh, có các trục đường giao thông quan trọng như: quốc lộ 1A, đường liên tỉnh lộ 10 nối liền với khu công nghiệp Đức Hoà (Long An); đường Nguyễn Văn Linh nối từ quốc lộ 1A đến khu công nghiệp Nhà Bè và khu chế xuất Tân Thuận quận 7, vượt sông Sài Gòn đến quận 2 và đi Đồng Nai; tỉnh lộ 50 nối huyện Bình Chánh với các huyện Cần Giuộc, Cần Đước (Long An).
Đại lộ Nguyễn Văn Linh chạy qua huyện Bình Chánh là điều kiện thuận lợi để huyện phát triển kinh tế - xã hội
Huyện Bình Chánh có hệ thống sông ngòi như: sông Cần Giuộc, sông Chợ Đệm, kênh Ngang, kênh Cầu An Hạ, rạch Tân Kiên, rạch Bà Hom…nối với sông Bến Lức và kênh Đôi, kênh Tẻ, đây là tuyến giao thông thủy với các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long.
Trong quy hoạch phát triển đến năm 2010, huyện Bình Chánh sẽ thực hiện hàng loạt các dự án đầu tư, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Bao gồm:
- Nâng cấp và mở rộng các trục giao thông đối ngoại gồm : Quốc lộ 1A, Nguyễn Văn Linh, Trịnh Quốc Nghị, Quốc lộ 50. Nâng cấp và mở rộng các trục giao thông đối nội gồm Tỉnh lộ 10, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Hữu Trí, Nguyễn Cẩn Phú, Đinh Đức Thiện, Hương lộ 11, Đoàn Nguyễn Tuân,…Xây dựng một số bến bãi tại các cữa ngõ thành phố trên địa bàn huyện.
- Xây dựng mới khu dân cư tại thị trấn Tân Túc; các khu nhà ở gắn với các khu công nghiệp Vĩnh Lộc, Lê Minh Xuân, Phong Phú, Đa Phước… và khu đô thị Nam Sài Gòn.
- Xây dựng khu công viên hồ sinh thái ở xã Vĩnh Lộc A, Vĩnh Lộc B diện tích 410 ha; khu công viên hội chợ triễn lãm (Nam Sài Gòn) diện tích 20 ha; sân Gold trong dự án khu đô thị Sing Việt, xã Lê Minh Xuân diện tích 210 ha; khu Bát bửu Phật đài, xã Lê Minh Xuân diện tích 50 ha; Khu công viên văn hóa Láng Le diện tích 56 ha; khu tưởng niệm Tết Mậu Thân, xã Tân Nhật diện tích 10 ha; khu công viên – cây xanh trong các dự án khu dân cư.
Đến Bình Chánh, du khách có thể tham quan khu căn cứ Vườn Thơm, căn cứ Láng Le Bàu Cò, chùa Bát Bửu Phật Đài và nhiều địa danh hấp dẫn khác.
2. Lịch sử
Năm 1820, vùng đất này thuộc huyện Tân Long, phủ Tân Bình, trấn Phiên An. Năm 1836, Bình Chánh thuộc huyện Tân Long, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Năm 1899, Pháp lập tỉnh Chợ Lớn, Bình Chánh được gọi là Trung Quận hay Trung Huyện của tỉnh Chợ Lớn. Đến năm 1957, mới có tên chính thức là huyện Bình Chánh, thành lập trên cơ sở tách ra từ huyện Trung Huyện. Đến năm 1960 do yêu cầu của cuộc kháng chiến Bình Chánh lại tách ra hai phần Nam, Bắc Bình Chánh: Nam gọi là Bình Chánh - Nhà Bè, Bắc nhập với Tân Bình gọi là Bình Tân. Đến năm 1972, tên gọi huyện Bình Chánh được phục hồi trên cơ sở hợp nhất Nam, Bắc Bình Chánh. Đến tháng 12 năm 2003, do sự tăng dân số cơ học và để tạo điều kiện thuận lợi để phát triển, huyện Bình Chánh tách ra một phần để thành lập quận Bình Tân.
Trong chiến tranh, Bình Chánh là địa bàn có truyền thống yêu nước và đấu tranh dũng cảm. Ngay thế kỷ 19, đây là địa bàn hoạt động của Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Định và các lực lượng kháng chiến khác. Những năm 1931-1945, Trung Huyện là địa bàn hoạt động của Xứ ủy Nam Kỳ, ủy ban Kháng chiến Nam Bộ, Công an Nam Bộ, quân khu 7. Đặc biệt, khu vực cạnh sông Chợ Đệm, thuộc ấp 4, xã Tân Kiên chính là nơi được Xứ ủy Nam Kỳ họp quyết định cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ngày 25-8-1945.
Trong giai đoạn kháng chiến 1954 - 1975, Bình Chánh trở thành căn cứ, là chỗ dựa của các lực lượng cách mạng, tổ chức nhiều trận đánh thọc sâu vào cơ quan đầu não của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà ở trung tâm Sài Gòn, điển hình như cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm Mậu Thân 1968 và chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Địa danh căn cứ Vườn Thơm- Bà Vụ là minh chứng hào hùng cho truyền thống yêu nước của nhân dân Bình Chánh.
3. Bản đồ
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH HUYỆN BÌNH CHÁNH
Dưới thời nhà Nguyễn, Bình Chánh thuộc huyện Tân Long, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Sau khi Pháp xâm lược và cai trị, đã thay đổi cách thức cai trị và phân ranh hành chánh, theo đó thì Bình Chánh lại thuộc quận Trung Quận (về phía chính quyền cách mạng thì gọi là huyện Trung Huyện) tỉnh Chợ Lớn. Đến năm 1957 huyện Bình Chánh được thành lập trên cơ sở tách ra từ huyện Trung Huyện; và đến năm 1960 do yêu cầu của cuộc kháng chiến Bình Chánh lại tách ra Nam, Bắc Bình Chánh; Nam gọi là Bình Chánh- Nhà Bè, Bắc nhập với Tân Bình gọi là Bình Tân. Đến năm 1972, tên gọi huyện Bình Chánh được phục hồi trên cơ sở hợp nhất Nam, Bắc Bình Chánh. Đến tháng 12 năm 2003, do sự tăng dân số cơ học và để tạo điều kiện thuận lợi để phát triển, Huyện Bình Chánh tách ra thành lập thêm Quận Bình Tân. Vậy hiện nay Huyện Bình Chánh còn lại 16 xã –thị trấn, với diện tích là 25.255,58 ha, và dân số năm 2009 là 418.513 người.
Cùng với quá trình hình thành và phát triển của Huyện, nhân dân Bình Chánh với truyền thống yêu nước, chống áp bức bất công, ngay từ những ngày đầu khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, nhân dân Bình Chánh đã đứng lên đấu tranh chống lại dưới ngọn cờ nghĩa khí của Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Định và các lực lượng kháng chiến khác. Đến khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời (3/2/1930 ), tại Bình Chánh có các ông : Hồ Văn Long, Nguyễn Văn Kỉnh, Nguyễn Văn Tiếp, Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Văn Trân …là những người đầu tiên giác ngộ cách mạng, đồng thời là cánh chim đầu đàn dẫn dắt nhân dân Bình Chánh làm cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Bình Chánh hăng hái đứng lên đấu tranh chống lại sự áp bức bất công, chống lại sự cai trị tàn bạo của thực dân Pháp, như tham gia phong trào chống sưu cao thuế nặng (1930 –1931 ), tham gia vào cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (1940 )…Năm 1945, khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước nhà được độc lập, nhân dân Bình Chánh đã cùng nhân dân cả nước hồ hởi đón chào sự độc lập của nước nhà, nhưng thực dân Pháp lại quay trở lại xâm lược nước ta lần nữa, nhân dân Bình Chánh lại hăng hái đứng lên chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp; dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên mảnh đất Bình Chánh anh hùng đã có những trận đánh oanh liệt, gây cho địch nhiều thiệt lại rất to lớn, nặng nề và góp phần làm cho tinh thần binh lính địch hoang mang, dao động.
Bình Chánh nổi tiếng với địa danh căn cứ Vườn Thơm- Bà Vụ, trở thành nơi đứng chân các lực lượng vũ trang và cán bộ lãnh đạo cao cấp của ta. Từ “ Vành đai đỏ” này, quân dân ta đã xiết chặt vòng vây tấn công vào trung tâm đầu não của địch tại Sài Gòn. Đặc biệt trong trận chống càn tại Láng Le – Bàu Cò ngày 15 /04/ 1948, quân dân Bình Chánh đã tạo nên một chiến công hiển hách, chiến công này được ghi vào lịch sử vũ trang của quân đội nhân dân Việt Nam. Những chiến công hiển hách ấy luôn được kế thừa và phát huy trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, Bình Chánh trở thành căn cứ, là chỗ dựa của các lực lượng cách mạng đứng chân tại đây, đồng thời cũng xuất phát từ đây, lực lượng cách mạng đã tổ chức nhiều trận đánh thọc sâu vào cơ quan đầu não của địch tại Sài Gòn, điển hình như cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm Mậu Thân 1968, đặt biệt là đã góp phần vào thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vào tháng 04 năm 1975, thắng lợi này đã giải phóng hoàn toàn đất nước và giành lại độc lập cho dân tộc. Với những đóng góp và chiến công vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng bộ và nhân dân Huyện Bình Chánh vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Huyện Anh Hùng. Thực hiện Nghị định 130/2003/NĐ ngày 5 tháng 11 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc chia tách địa giới hành chánh, ngày 02 tháng 12 năm 2003 Huyện Bình Chánh đã thực hiện xong việc chia tách. Trên cơ sở chia tách 4 xã –thị trấn: Tân Tạo, Bình Trị Đông, Bình Hưng Hòa và Thị trấn An Lạc để thành lập 10 phường trực thuộc Quận Bình Tân. Sau lễ công bố thành lập Quận Bình Tân, Huyện Bình Chánh đã tổ chức lễ công bố thành lập Thị trấn Tân Túc, hiện nay huyện Bình Chánh còn lại 16 xã –thị trấn, trong đó có 1.266 tổ, 80 ấp, khu phố, 112.801 hộ với 418.513 nhân khẩu.
Tóm lại, sự hình thành và phát triển của huyện Bình Chánh từ khi thành lập cho đến nay, nhân dân Bình Chánh không ngừng chiến đấu, lao động và sáng tạo để góp phần xây dựng Huyện nhà ngày một phát triển và đi lên, xứng đáng với danh hiệu cao quý do Đảng – Nhà nước trao tặng “ Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân”